“Holy , Holy, Holy”

“Thánh thay! Thánh thay! Thánh thay! Đấng chủ tể oai quyền! Đang khi tưng tưng sáng, chúng tôi đã dâng khúc hoan ca; Thánh thay! Thánh thay! Thánh thay! Trí, dõng, ái đức vô biên! Chúa Ba ngôi vốn một thể oai nghi, rạng loà.”

Tác giả của bài Thánh ca được cảm động bởi những lời tiên tri huyền nhiệm của Ê Sai: “Về năm vua Ôxia băng, tôi thấy Chúa ngồi trên ngôi sao sang, vạt áo Ngài đầy dẫy đền thờ. Những Sêraphin đứng bên trên Ngài ; mỗi Sêraphin có sáu cánh, hai cái che mặt, hai cái che chân, và hai cái dùng để bay. Các Sêraphin cùng nhau kêu lên rằng : Thánh thay, thánh thay, thánh thay là Đức Giêhôva vạn quân ! Khắp đất đầy dẫy sự vinh hiển Ngài” (Êsai 6 : 1-3).

Mặc dầu lẽ đạo Cơ đốc về ba ngôi Đức Chúa Trời chưa được hiểu rõ ràng trước ngày lễ ngũ tuần, nhưng những Cơ Đốc nhân đều tin rằng điều này đã được bày tỏ trong Cựu ước cũng như Tân Ước rồi. Trong sự hiện thấy của Êsai về ĐCT, Ba ngôi ĐCT được đề cập bằng 3 tiếng lập lại của thiên sứ. Những chữ này đã trở thành bài ca lịch sử của những kẻ tôn thờ ĐCT. Bài này được gọi là “Trisagion” hoặc “Tersanctus”. “Ba Ngôi thánh thay”.

Một đoạn tương tự trong Khải 4:8-11. Bài này được viết bởi Reginald Heber, chủ tọa một Hội thánh tại Hodnet, Đông Anh Quốc, từ 1807 – 1823.

Heber không giống như mọi người, sanh ra trong 1 gia đình giàu có và trí thức, ông dâng đời sống mình để hầu việc Chúa cả ở quê hương Anh lẫn xứ Ấn Độ xa xôi. Dầu ông có ân tứ về học thức rất cao và là bạn của nhiều văn sĩ lớn nhưng hoài bảo lớn nhất của ông vẫn là hoàn mỹ những thánh ca hát trong chính nhà thờ của ông.

Khi Heber nhận chức vụ Giám mục tại Calcutta năm 1823 ông được đi giảng đạo ở hải ngoại như ông hằng mong ước. Với chức Giám mục, ông cai quản một vùng gần hết Nam Thái Bình Dương. Trong 3 năm ông đi từ chỗ này đến chỗ khác, không mỏi mệt để làm tiến bộ công việc Chúa tại địa phương. Ngày 3 tháng 4 năm 1826, Heber giảng về sự gian ác của giai cấp phong kiến xã hội Ấn Độ trước một đám đông cử tọa tại Trichinopoly. Sau đó ông đi tắm tại hồ bơi ở nhà. Cách ít lâu sau người ta tìm thấy ông bị chết đuối và trên xác có dấu bị đánh đập. Ông mất năm 43 tuổi, được chôn tại Trichinopoly. Năm 1875 hoàng tử xứ Wales đến đặt một tấm biển tưởng niệm ông.

Heber sống và làm việc trong thời mà nền văn chương Anh đạt trình độ cao về mỹ từ và cấu trúc thi văn. Đặc điểm này thể hiện rõ ràng hơn trong bài ca này. Câu 1 nói về Ba bản tính của ĐCT Ba ngôi : Thánh, Trí Dõng, Ái đức.

Câu 2 : Các thánh, Chêrubin và Sêraphin tôn thờ Ba ngôi ĐCT. Kết thúc bằng câu “Ba ngôi” mô tả ĐCT đời đời nguyên hữu, chung vô hạn kỳ. ĐCT cũng là toàn thiện, sự hiểu biết của chúng ta đối với Ngài hữu hạn, Ngài bị che khuất bởi tội lỗi chúng ta và sự thiếu hiểu biết của chúng ta. Dầu vậy, chúng ta cũng đủ thấy vinh quang Ngài để biết rằng Ngài toàn mỹ – toàn mỹ trong linh năng, thánh sạch và yêu thương. Đây là câu 3 “Ba ngôi”.

Câu chót mượn ý của Giăng hiện thấy ở Khải 4:11. ĐCT là Đấng tạo ra mọi sự và sự vinh hiển Ngài. Do đó, muôn vật trên trời, dưới đất, nơi biển đều tôn vinh Ngài.

Điệu nhạc được soạn bởi John B. Dykes, nhạc sĩ Organe và soạn giả nổi tiếng nước Anh và cũng là giáo sư trong giáo hội Anh.

Khi xuất bản năm 1861, Dykes đặt tên có ý nghĩa là “Nicene” để nhắc đến lẽ đạo Ba ngôi ĐCT được giáo hội tuyên ngôn đức tin năm 325 tại Nicene.