Nguyên-văn tiếng Anh của cử-nhơn Basil Mathews
CHƯƠNG THỨ SÁU
Đi đầu thám đường châu Phi
GIA-QUYẾN đã đi rồi, ông bèn từ Cape Town trở vào châu Phi. Ông muốn đem cậu bé 12 tuổi, con bạn ông, về ở với mình cho vui. Con đó tích đi, song người cha không ưng-thuận. Cậu bé 12 tuổi đó, bây giờ tức là bác-sĩ Thompson, làm thơ-ký cho Hội Luân-đôn trong ba mươi nă. Chiếc thân vò-võ, Livingstone đến Kuruman, vào ra mắt ông gia, mới biết rõ việc người Ba-nhĩ giày-đạp giống Kolobeng. Người Ba-nhĩ đã giết chi-tộc vua Sechele, lại xua-đuổi vua đó. Nhà ở của Livingstone cũng bị đốt cháy. Vợ con vua Sechele trốn đến Kuruman. Bà Moffatt có hỏi chuyện về tình-hình khi thoát vòng nguy-hiểm ra sao, thì vợ vua ất đáp : “Ban đầu tôi đem con nhỏ trốn trong khe núi ; sau, người Ba-nhĩ lấy súng bắn, tôi bèn vào trong hang đá mà ẩn-núp. Một lúc, con khóc, sợ giặc nghe tiếng kéo đến, liền lấy chiếc vòng cho con chơi, con không khóc nữa. Người Ba-nhĩ cùng đi nơi khác. Tôi được thoát nạn.” Trận chiến-tranh ở Kolobeng, ông Livingstone chẳng những cháy nhà, mà đến cả thuốc-men và nhựt-ký cũng bị thiêu-hủy! Vậy mà, đối với người Kolobeng, ông vẫn không hề lằm-bằm và tức-giận, song chỉ nói : “Tôi đã không có nhà ở và đồ dùng, thì chỉ đi chơi cho khoan-khoái mà thôi.” Lại nói : “Người Ba-nhĩ quyết ý đóng cửa xứ mình, không muốn mở ra : song tôi thề quyết mở toang, không cho đóng lại ; thử xem về sau ai sẽ được thắng. Xin liều chết mà làm cho trọn.”
Khi đó, ông từ đồng vắng Kalahari quanh về, tùy ý ở đậu, không có chương-trình nhứt-định gì cả. Dọc đường, thấy chim đà chạy nhảy vì cỡ hãi người, mỗi bước nó đi dài chừng một trượng bốn thước. Giữa đường, ông giết được một con rắn lớn, mình nó to bằng đùi vế. Mỗi đêm, nằm lộ-thiên, hằng lo sư-tử đến vồ ; phải đốt thuốc thâu đêm suốt sáng, nên không hề gì. Một hôm, đi về phía bắc, qua sống, ông thấy có bầy trâu nước, đông lắm, đứng quây như cái vòng tròn, vẫy đầu kêu rầm-rĩ. Ngoài vòng đó, có con sư-tử, muốn nhảy vào vồ con trâu nhỏ ; song bị trâu lớn chống lại, nên không trôi. Không bao lâu, ông đi đến một chỗ, đất mới được mưa, sắc cỏ sanh-tốt, chim kêu véo-von, hoa nở bát-ngát ; nước ao bị mặt trời soi-rọi, bốc hơi nóng lắm. Ông lại thấy có những cây nho sai trái bị voi vặt ăn. Đó là những cảnh bày ở dọc đường. Một bữa, ông đi đến đồng cỏ, bốn bề cây cỏ rậm-rạp, um-tùm ; có cái lạch nhỏ, dòng chảy ào-ào ; nào ngựa, nào hươu, nào dê rừng, nào ngựa vằn, nào tê trắng, vân vân, hằng qua lại bên mình. Có một con tê, đầu có sừng lớn, lấp cả mắt nhỏ, cứ bơi theo sông, nên không thấy ông. Dưới bóng cây, thường thấy trâu nước nằm nghỉ.
Một buối sáng kia, mặt trời mới mọc, chợt có bầy sư-tử đến vồ xe ông, ông lấy súng bắn lại ; sư-tử há mồm lớn, ngoe-ngầy cổ, vẫy ngược đuôi lên, gầm thét rầm-rĩ làm cho trâu sợ, muốn trâu chạy rồi, sẽ vồ ông. Song con trâu kéo xe cứ im-lặng, không rúng-động. Sư-tử nằm phục xung-quanh, rống rầm cả lên, trâu vẫn không sợ, bầy sư-tử bèn tan đi hết, nhưng cơn giận chưa nguôi, chúng cứ gầm-ghì mãi.
Một lát, đến một con sông cái rộng lớn, khổ nỗi không có thuyền đi, bèn dùng cánh bè làm sẵn mà vượt sông. Bỏ xe đi bè, đến chỗ có cỏ, lại bò bè mà lội, nước sâu đến đầu gối. Thấy có con dê rừng, ông lấy súng bắn, khiêng lên trên cạn, thui ăn. Đoạn nằm ngủ.
Trời đã sáng, ông trèo lên ngọn cây mà coi-ngắm : thấy có vài cái đảo nổi ở trong sông, bèn xuống từ cây, bơi nước để đến những đảo đó. Nhưng trong nước đầy những lau sậy, lại bị dây cây “toàn-phú” ràng-quấn vướng-vít, nên quần áo và chơn tay ông đều rách đứt cả ; ống quần ở đầu gối lại bị lau sậy cưa đứt, ông bèn lấy khăn buộc lại, rồi cứ bơi đi như cũ, song mơ-màng không biết đường nào mà đi nữa. Sau, ông bắt con trâu nước ghếch nghiêng sừng lên để đưa đường ; ngặt vì trong sống có loài rái và rắn độc, mà nước thì lại sâu lắm, cho nên không thể lội được. Mỏi-mệt quay về, nằm ngủ trong nhà bỏ hoang của người mọi. Bị muỗi khuấy rồi, suốt đêm ông không ngủ được. Khi đó, Livingstone thật là lui tới dở-dang. Song ông vốn là một người kiên-nhẫn, dầu có lắm nỗi khó-khăn, cũng không ngăn-ngừa cái chí tiến-hành của ông được.
Sáng hôm sau, đi đến một cái nui tổ kiến, cao chừng ba trượng, chợt thấy con sông nhỏ khác, ông bèn cỡi bè vượt sông. Trong sông có con trâu nước lớn nằm ẩn ở dưới, bè đi qua lưng nó, nó vội nhồ đầu lên. Song từ trưa đến lúc mặt trời lặn, lững-đững giữa dòng, không thể gạt lau rẽ sậy mà sang bờ bên kia được. Đang khi gần hết hi-vọng, bỗng tìm thấy một xóm ở phương bắc. Xóm đó thuộc dưới quyền cai-trị của viên tù-trưởng Makololo mà ông vẫn quen-biết. Thinh linh thấy ông đến, Makololo ngờ là con ma, vì tưởng ông từ mây bay xuống Makololo bảo ông lại đi xe đến xóm đầu của chi-tộc Linyanti.
Chi tộc đó có 6000 người, khắp mặt đều đi đón ông, chỉ vì từ xưa đến nay, chưa hề thấy cái xe trâu bao giờ. Khi kẻ đi thám thấy ông đến, vui mừng nhảy nhót, bèn đi rao truyền cho nhau biết rằng bạn cũ của tù trưởng đã vui lòng đến nơi.
Không bao lâu, vua Makololo qua đời, con gái vua không muốn nối ngôi. Con trai vua bèn lên làm tù trưởng, tuổi mới mười tám, chơi thân với ông, hằng kêu ông là “tân phụ”,. Thường nói với ông rằng “Thứ cà phê mà ông cho tôi ngon hơn thứ cà phê của lái buôn đem đến, Vì ý lái buôn muốn cầu ngà voi, còn ý ông thì chỉ muốn cầu bỉ nhơn mà thôi.” Một hôm, viên tù trường và ông cùng ngồi xe trâu đi ra, những người bộ hạ Makololo, trừ đờn bà con trẻ ra, đều đi theo cả. Thấy người bổn xứ ăn mặc rất lạ ; hoặc lấy lông đuôi trâu đính vào mũ, hoặc lấy lông chim đà cài vào đầu, hoặc trang sức bằng tóc sư tử và sừng con dê, hoặc cầm tên dài, hoặc vác sào, cắp thuẫn. Hôm đi, thịt dê rừng làm tiệc. Chiếu đến, đóng ở chi tộc Barotse. Chi tộc đó cũng thuộc Makololo cai trị. Người bổn xứ đua nhau đem sữa ngon cho bọn ông. Viên tù trường và ông cùng nằm trong trại. Chuột đói xứ đó hằng đến gặm người ; đôi giày da của ông lại bị chó nhá. Cái trại đó làm hình tròn, trên nóc lớp lá lau sậy, bốn bề trái đất.
Từ đó bọn ông lại ra đi, rồi đến sông cái Zambesi. Ai nấy đều đi thuyền cả. Cọng 33 chiếc thuyền và 160 chú lái. Chú lái đứng sững bơi chèo ; mái chèo dài chừng tám thước. Khi đến chỗ nông, thì lấy mái chèo làm sào, thuyền đi như bay. Sông chảy cuồn-cuộn, thuyền đi thẳng hàng, lấp ló ở trong rừng rậm. Rừng nhiều cây kè rất cao, trái sai như quấn. Dưới có bầy voi vầy nước, lấy vòi phun lên, cao chừng ba thước. Những trâu nước nhỏ lom khom trên lưng trâu mẹ đang bơi lượn trong nước. Giây láy có tiếng lớn ra từ mặt csm thấy cá i dòng sông rộng ba cây số đó đổ mạnh chảy xô, rót xuống thành cái thác lác. Bây giờ mới bỏ thuyền lên cạn, khiêng thuyền chừng ba cây số, rồi lại theo sông mà đi lên. Người châu Phi đi săn thấy bọn ông đến, bèn chạy trốn mất. Những người cùng đi với ông chạy cuồng đuổi theo, muốn lấy áo xống và đồ dùng mà họ bỏ lại ; song ông cố ngăn đừng lấy. Đối với những người đồng bạn, ông đãi rất tử tế, nhưng hễ gặp đều gì trái lẽ, thì ắt răn bảo nghiêm nhặt, chớ không tha hứ, cho nên họ đều phục cả.
Không bao lâu, ông gặp bợn A-ráp đi buôn người, họ cướp bắt trai, gái, già, trẻ trong cóm để đem bán làm mọi : cùm tay, xiềng cổ, lấy xích trói lại, như xâu cá vậy; lôi kéo dọc đường, chết mất nhiều lắm ! Còn ai chưa chết, thì họ xua cả đến chỗ trồng trọt, đốc thúc làm lụng hết sức ; hễ ai trễ nải, thì họ lấy roi da đánh đập, rất là tác ác thảm thê ! Mắt thấy cái thảm trạng đó, ông bèn quyết chí sau nầy phải trừ cho tiết hẳn cái thói ác bán mọi ở châu Phi ấy đi mới nghe. Cho nên khi về đến Linyanti, ông liền mạnh dạn hăng hái tìm cách trừ tuyệt hạng người A-ráp không cho buôn mọi đen nữa. Lại mong dập dặt cái vạ chiến-tranh chém giết ở Châu Phi, ông càng muốn mở một con đường mới từ chỗ mình đang ở bây giờ ra tới bờ biển, khiến cho người ngoài vào xứ truyền đạo, đi lại tiện lợi mà không có sự ngăn trở, dễ biến hóa cái thói của người bổn xứ. Vả, thổ sản ở Châu Phi như ngà voi, cà phê và bông, vân vân, cũng tải ra bán được, thì nghề buôn trong xứ mới được thạnh vượng. THế là làm một việc mà lợi cả hai. Vì cớ đó, ông lại hăng hái tiến lên, chẳng hề ngã lòng nản chí. Hết thảy những nỗi khó khăn hiểm nghè như thú dữ, guống mọi, gai gốc, vật bẩn thỉu, khí ấm thấp, địch lệ dữ dội, vợ con quấn quít, đều không đủ ngăn trở cái chí tiến hành của ông một chút nào. Ông hằng nói: “Tôi phải mở một con đường từ giữa châu Phi cho ra tới biến. Xin đem cái chết để làm chọn cái chí ấy.”.